Offenbar hast du diese Funktion zu schnell genutzt. Du wurdest vorübergehend von der Nutzung dieser Funktion blockiert.
Offenbar hast du diese Funktion zu schnell genutzt. Du wurdest vorübergehend von der Nutzung dieser Funktion blockiert.
Nhân viên buồng phòng trong tiếng Anh được gọi là “housekeeping staff” hoặc “room attendant.” Đây là những người làm việc trong ngành khách sạn, chịu trách nhiệm vệ sinh và sắp xếp căn phòng, làm sạch, thay ga giường, dọn dẹp và cung cấp dịch vụ khác để duy trì sự sạch sẽ và tiện nghi cho khách hàng.
Thăm Quan Di Tích Thủ Đô Cùng 20 Hotel
Sắp xếp theo: Sản phẩm nổi bật Giá: Tăng dần Giá: Giảm dần Tên: A-Z Tên: Z-A Cũ nhất Mới nhất Bán chạy nhất
Thuật ngữ tiếng Anh buồng phòng bao gồm các thuật ngữ chỉ chức vụ, thuật ngữ chỉ tác vụ, thuật ngữ nghiệp vụ và một số từ vựng về đồ dùng và thiết bị trong phòng khách. Các thuật ngữ buồng phòng thường là tên viết tắt của cụm từ tiếng Anh, khi học các bạn nên học cả cụm từ thay vì chỉ nhớ từ viết tắt.
Thuật ngữ buồng phòng là những từ ngữ biểu thị khái niệm đặc trưng của nghề buồng phòng. Các thuật ngữ buồng phòng thường là những từ viết tắt của tiếng Anh, nhân viên buồng phòng nắm rõ thuật ngữ sẽ có nhiều thuận lợi trong công việc.
Trưởng bộ phận buồng phòng trong tiếng Anh thường được gọi là “Executive housekeeper”, “Housekeeping manager” hoặc “Head of housekeeping.” Đây là người đứng đầu và chịu trách nhiệm quản lý toàn bộ hoạt động của bộ phận buồng phòng trong một khách sạn hoặc cơ sở lưu trú khác. Trách nhiệm của họ bao gồm lập kế hoạch, điều phối công việc, quản lý nhân viên buồng phòng và đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh, chất lượng dịch vụ được duy trì.
Buồng phòng trong tiếng Anh được gọi là “housekeeping” hoặc “housekeeping department.” Buồng phòng là nơi các nhân viên thực hiện việc dọn dẹp, lau chùi, sắp xếp, và duy trì sự sạch sẽ của các phòng trong khách sạn, resort hoặc cơ sở lưu trú khác.
Nghiệp vụ buồng phòng trong tiếng Anh có thể được diễn đạt là “Housekeeping procedures” hoặc “Housekeeping operations.” Đây là tập hợp các quy trình, hoạt động và kỹ thuật mà nhân viên buồng phòng thực hiện để duy trì sự sạch sẽ, tiện nghi và trình tự trong các phòng ngủ hoặc khu vực công cộng trong cơ sở lưu trú như khách sạn, resort hoặc khu nghỉ dưỡng. Các nghiệp vụ này bao gồm việc dọn dẹp, sắp xếp, thay ga giường, làm sạch vệ sinh và cung cấp dịch vụ khác để đảm bảo tiêu chuẩn cao về chất lượng dịch vụ.
Tophotel.vn vừa chia sẻ với các bạn Thuật ngữ tiếng Anh buồng phòng. Hi vọng những thông tin kiến thức trên sẽ giúp ích cho các bạn trong công việc cũng như cuộc sống. Chúc các bạn sức khỏe và thành công!
Cuốn sách đưa người đọc vào tham quan buồng lái của một phi công dân dụng. Chỉ riêng điều đó đã khiến cho nhiều người phải tò mò tìm đọc “Cơ trưởng từ buồng lái”.
Buồng lái máy bay Boeing. Nguồn: hanoimoi.
Hành khách trong những chuyến bay dọc ngang đất nước, nhất là trong những chuyến bay dài xuyên lục địa, không khỏi có lúc nghĩ đến người phi công đang ngồi trong buồng lái cách biệt phía trên kia. Không chỉ mơ màng mà còn băn khoăn, phi công đang làm gì, nghĩ gì, tâm tính và sức khỏe ra sao, để có thể đưa ta đi trong một hành trình thuận chiều và êm ả.
Tác giả Thư Uyển giãi bày rằng sau vụ khủng bố 11/9/2001, buồng lái máy bay tuyệt đối trở thành một cấm địa, không có nhiệm vụ thì không ai được phép bước chân vào đó. Chỉ bằng cách viết ra quyển sách này, Thư Uyển mới có thể đưa người nhà và bạn bè cùng người đọc vào tham quan buồng lái, để khám phá và để hiểu hơn về người phi công trong đó.
Về bố cục, ba phần đầu đúng như hành trình mà một người lái chính phải trải qua: thời kỳ học lái, thời kỳ được làm cơ phó, rồi trở thành lái chính trên một chiếc máy bay dân dụng. Phần thứ tư cập nhật một thời kỳ khó khăn vừa mới qua trên khắp các lục địa: dịch cúm Corona.
Sách Cơ trưởng từ buồng lái, tác giả Thư Uyển, Nhã Nam và NXB Phụ Nữ Việt Nam liên kết phát hành 2022.
Mỗi phần gồm nhiều bài nhỏ, giữa các bài lại có những chặng nghỉ mà tác giả gọi là transit, tức là toàn bộ cuốn sách như những chuyến bay, mà phần transit là một chặng nghỉ để chuyển tiếp. Ở những chặng nghỉ này, tác giả dừng ngắn, có khi để giải thích những thuật ngữ hàng không quốc tế, những khái niệm riêng của hàng không Việt Nam, có khi là cung cấp thông tin bổ ích hoặc chuyện vui cho người đọc giải trí. Sắp xếp bố cục cuốn sách như vậy, phi công kiêm tác giả tỏ ra là người am hiểu tâm lý của hành khách - người đọc.
Cơ trưởng từ buồng lái chia thành nhiều bài nhỏ, mỗi bài như vậy là một đoạn nhật ký của tác giả, ghi lại hai năm học bay ở Pháp cho đến khi về Việt Nam để được huấn luyện tiếp trước khi chính thức bay. Anh kể về những ngày đầu làm quen với chiếc máy bay dành cho người tập lái, thật là nhiều thử thách.
Chẳng hạn khi bay tập, việc thay đổi độ cao đột ngột khiến người lái bị say: “Có những người say đến bốn năm hôm sau. Ăn gì nôn đó. Đầu óc ruột gan cả ngày quay vòng. Lại có những người chỉ say vào đúng cái giờ mà họ bị say ở chuyến bay đầu tiên như tôi - lúc 13 giờ. Cứ đến giờ đó tôi lại chếnh choáng như say rượu. Đến giờ kết thúc chuyến bay thì người mới tỉnh lại” (trang 26).
Tác giả kể khá đầy đủ và sinh động về cảm giác của chuyến bay một mình đầu tiên trong thời gian học lái, khi lên làm cơ phó rồi làm cơ trưởng. Cũng rất chi tiết, Thư Uyển kể về sai lầm đầu tiên của thời học viên: không kiểm tra cẩn thận trước khi bay, để xảy ra một sai sót, chưa kịp bay lên thì thầy cho máy bay quay ngay về trường. Ông thầy gay gắt: “Anh quá nguy hiểm” (trang 70).
Đặc trưng của nghề khiến phi công không được phép mắc sai lầm khi ngồi lên ghế lái, nếu có sai sót thì phải biết kịp thời xử lý. Cũng trong thời gian tập lái ở Pháp, tác giả có lần nghe được cuộc hội thoại của một máy bay tư nhân đang đưa gia đình đi chơi đến thành phố khác, phi công dùng sóng liên lạc nhờ mặt đất đặt bàn ăn.
Ông thầy chuyên nghiệp không kìm được giận dữ mà quát vào micro: “Ai cho phép các anh dùng sóng nói những chuyện thế này? Các anh biết làm như vậy rất nguy hiểm không? Lỡ ai có chuyện gì thì làm sao mà liên lạc? Tôi sẽ báo cáo tất cả các anh” (trang 77). Ông thầy trên không phải nghiêm khắc như thế thì mới ra những học viên biết bảo đảm an toàn cho chuyến bay.
Trong suốt cuốn sách, tác giả cho ta thấy nhiều phẩm chất của phi công, những điều kiện cần và đủ để họ có thể bảo đảm cho những chuyến bay êm như lụa và an toàn. Có những khi Thư Uyển tạt ngang nói về những nét cá tính thông tục và vui vui của nghề, ví dụ thói quen văng tục của các ông thầy nước ngoài khi không hài lòng với học viên: “Có người giải thích rằng, trước đây, hoạt động bay là độc quyền của nhà lính.
Mà phàm đã liên quan đến chiến đấu, thì mọi quyết liệt trên thao trường - trong đó có các trao đổi không mấy gì là lịch sự của thầy đối với trò, được xem là chuyện đương nhiên. Sau này hoạt động bay được dịch chuyển nhiều sang dân dụng, môi trường mà đối nhân xử thế buộc phải nhũn nhặn hơn. Nhưng những thói quen đầy nam tính mà người ta được trui rèn trong quân ngũ vẫn còn ở đó, như một nhúm tàn quân vẫn kiên cường bắn trả vì tưởng rằng tướng lĩnh của mình chưa buông súng” (trang 64).
Phi công đang điều khiển chuyến bay tất nhiên là hoàn toàn cách biệt với hành khách, nhưng phi công của “chuyến bay” trong cuốn sách này là một người đối thoại cởi mở và tỏ ra vui tính. Người đọc không thể không bật cười khi anh nhắc lại giọng đồng bằng Bắc bộ của giáo viên kèm bay, nói ngọng lẫn lộn e lờ en nờ ngay cả khi nói tiếng Anh để xin hạ cánh.
Hoặc chuyện một ông thầy nước ngoài nói với một lái phụ trót hạ cánh hơi nặng, ông giải tỏa cho lái phụ phạm lỗi bằng cách nhận trách nhiệm của ông với tư cách là lái chính. Cũng để cho không khí bớt căng thẳng, ông thầy còn đưa ra một định nghĩa thật như đùa: “Hạ cánh tốt là sau khi hạ, người ta còn sống sót. Hạ cánh tuyệt vời là sau khi hạ, máy bay còn sử dụng được” (trang 116).
Có lúc hóm hỉnh vui đùa, nhưng phần lớn cuốn sách là giọng điệu kiềm chế, ngôn ngữ sáng rõ và chắc chắn, lại được qua khâu biên tập hiệu chỉnh khá cẩn thận. Người đọc có cảm tưởng tin cậy và được thuyết phục trước những tư liệu, những tình huống, những tính cách được tác giả mô tả. Nhiều câu chuyện thực sự thú vị và hấp dẫn, có những trang thật trữ tình. Sự háo hức được bước vào buồng lái đã được cuốn sách thỏa mãn ở mức vừa đủ mà vẫn bảo mật những thông tin riêng của ngành nghề.
Tác giả lấy bút danh Thư Uyển, hàm nghĩa “vườn sách”, chắc là anh không chỉ có một thư phòng mà là cả một vườn sách. Cũng có thể vườn sách ấy là mong muốn, hoặc nó ở chính trong kho kiến thức của anh. Xuyên suốt “chuyến bay - cuốn sách”, người ta thấy Thư Uyển là người dẫn đường am hiểu nhiều lĩnh vực văn hóa đời sống. Tức là người phi công bay trên trời nhưng hiểu biết của anh không chỉ bó hẹp trong buồng lái mà còn hiểu bầu trời và hiểu cả mặt đất ở dưới kia, nơi anh luôn đưa mọi người trở về.
Hồ Anh Thái / Đại biểu nhân dân